TÀI LIỆU SINH HOẠT QUÝ I/2017
/fileman/Uploads/TÀI LIỆU HOẠT ĐỘNG HỘI/Dự thảo TLSHHV quý I- 2017 .doc
|
Tài liệu tuyên truyền công tác phòng, chống tham nhũng
/fileman/Uploads/TÀI LIỆU HOẠT ĐỘNG HỘI/Tai lieu tuyen truyen phòng chống tham nhũng.pdf
|
Nội dung clip truyền thông "Chung tay khắc phục sự cố môi trường biển miền Trung"
/fileman/Uploads/TÀI LIỆU HOẠT ĐỘNG HỘI/tai lieu tuyen truyen su co moi truong bien mien trung.doc
|
Tỉnh Quảng Ninh với công tác bảo vệ quyền lợi thủy sản
/fileman/Uploads/TÀI LIỆU HOẠT ĐỘNG HỘI/TỈNH QUẢNG NINH VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ QUYỀN LỢI THỦY SẢN.doc
|
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY THÀNH LẬP HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM (20/10/1930-20/10/2020)
Trải qua 90 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày càng xứng đáng là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã giữ vững vai trò nòng cốt trong phong trào phụ nữ, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo.

Những mốc son tiền đề
Giai đoạn 1927 - 1930: Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là những người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nên luôn mong muốn được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu Pháp xâm lược Việt Nam, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du.
Tiêu biểu trong giai đoạn này, cả nước có 5 nhóm phụ nữ yêu nước được tổ chức với nhiều hình thức hoạt động phong phú. Năm 1927, nhóm ba chị em Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten gồm 30 chị vừa học nghề vừa học chữ. Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Huỳnh Thị Thuyên, Nguyễn Thị Quang Thái ở Huế tham gia Sinh hội đỏ ở trường Nữ học Đồng Khánh. Ở Triệu Phong (Quảng Trị) có nhóm các chị Hoàng Thị Ái, Lê Thị Quế tổ chức cửa hàng Hưng Nghiệp Hội Xã để làm tài chính cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Ở Mỹ Tho, tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lập ra Gánh hát Đồng nữ do cô giáo Trần Ngọc Viện (Ba Viện) phụ trách đã tập hợp 30 thiếu nữ là con em các gia đình yêu nước đi diễn lưu động những vở tuồng có nội dung tiến bộ qua nhiều tỉnh để vừa tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng, vừa gây dựng tài chính cho Hội. Nhiều phụ nữ trong gánh hát sau nay trở thành đảng viên, cán bộ cách mạng.
Năm 1928, do ảnh hưởng của phong trào Duy Tân và tiếp thu tư tưởng tiến bộ qua sách báo, xuất hiện nhiều phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ. Ở Đà Nẵng, nhiều chị em tham gia tổ chức “Đà thành Nữ công học Hội”. Ở Nghệ An tổ chức “Phụ nữ đoàn” ngày càng phát triển. Riêng năm 1928 phát triển thêm được 50 người, chị Nguyễn Thị Minh Khai được cử làm Bí thư “Phụ nữ đoàn” và làm giao thông bí mật của liên tỉnh. Năm 1929, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An liên hệ với chị Nguyễn Thị Xân, Nguyễn Thị Thiu, Nguyễn Thị Nhuận thành lập tổ Phụ nữ giải phóng ở Vinh… Các tổ nhóm này vừa tham gia sinh hoạt vừa âm thầm tuyên truyền hoạt động cách mạng.
Năm 1930: Tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản từ ngày 6/1/1930 - 8/2/1930, bên cạnh Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình điều lệ tóm tắt của Đảng, Hội nghị còn quyết định thành lập các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo, trong đó có Hội phụ nữ Giải phóng.
Sau khi thành lập Đảng, từ ngày 14-31/10/1930, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất, bên cạnh việc thảo luận Luận Cương chính trị của Đảng, Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về Phụ nữ vận động, trong đó đề ra nhiệm vụ phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ như “phụ nữ hiệp hội”. Đồng thời Trung ương Đảng đã đề ra Điều lệ Phụ nữ Liên hiệp Hội. Với tính chất quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất tháng 10/1930 đã đánh dấu quá trình hình thành tổ chức Hội đầu tiên của phong trào phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giai đoạn 1930 - 1936: Hoạt động của phong trào phụ nữ thời kỳ này có nhiều phương thức tổ chức thích hợp với chủ trương hoạt động bí mật của Đảng như Hội cấy, Hội gặt, Hội tương tế… Hình thức hoạt động này đã tập hợp được số đông phụ nữ tham gia và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức đối với phụ nữ. Tổ chức “Phụ nữ Giải phóng” được hình thành năm 1930 - 1931 đã thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào cao trào đấu tranh cách mạng (điển hình là Xô viết Nghệ Tĩnh). Tổ chức đã tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, đòi cải thiện đời sống, chống áp bức của đế quốc phong kiến.
Giai đoạn 1936 - 1939: trước yêu cầu của cách mạng, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 8/1937 về công tác vận động phụ nữ đặt ra nhiệm vụ chống phát xít, chống chiến tranh bằng hình thức công khai, hợp pháp. Vì vậy, tổ chức cách mạng của phụ nữ được đổi thành Hội phụ nữ Dân chủ. Hội đã tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng về giải phóng phụ nữ, nam nữ bình đẳng và tổ chức các hoạt động gắn với tính chất ngành nghề của phụ nữ để đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi quyền lợi cho phụ nữ như: hội Ái hữu, hội Truyền bá quốc ngữ. Trong đấu tranh, phụ nữ công nhân các nhà máy đông nữ như Dệt Nam Định, Tơ Hải Phòng, Mỏ Quảng Ninh, Diêm Bến Thủy, Thuốc lá Sài Gòn, Gấm Thủ Dầu Một… đã nêu những tấm gương bền bỉ, kiên cường.
Giai đoạn 1939 - 1941: Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng chủ trương: “Vận động phụ nữ tổ chức các hội phụ nữ phản chiến, các hội cứu tế, bảo an… để giúp đỡ nhau, chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình”. Để phù hợp với tình hình, Hội lấy tên là Hội phụ nữ Phản đế. Hội đã vận động chị em tham gia mít tinh, biểu tình, lập các hội cứu tế, bảo an, tham gia chống bắt lính với khẩu hiệu chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình, đòi bồi thường chiến tranh. Phụ nữ thoát ly gia đình, tham gia hoạt động cách mạng ngày càng đông đảo, góp phần xây dựng lực lượng chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đọan, các tầng lớp phụ nữ được tập hợp trong tổ chức “Hội phụ nữ phản đế”, thành viên của Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (năm 1939), và “Đoàn phụ nữ cứu quốc”, thành viên của Mặt trận Việt Minh (năm 1941) để tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, tập hợp và xây lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Giai đoạn 1941 - 1945: Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được thành lập ngày 16/6/1941. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn Phụ nữ cứu quốc đã vận động các tầng lớp phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt Minh, gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi Nhật, xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng. Phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Để gấp rút chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền, phụ nữ đã tích cực tham gia các phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, phá kho thóc giải quyết nạn đói... Hội phụ nữ vận động các hội viên bí mật xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng. Nhờ vậy, phong trào phụ nữ ngày càng lớn mạnh, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hệ thống của Đoàn Phụ nữ Cứu quốc có 4 cấp: Ban Chấp hành từ cơ sở đến huyện, tỉnh, xứ. Cuối năm 1941 đồng chí Hoàng Ngân được giao nhiệm vụ Bí thư Phụ vận xứ Bắc Bộ.
Tập hợp phụ nữ thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất và bảo vệ đất nước
Giai đoạn 1946 – 1954: kháng chiến chống thực dân Pháp
Ngày 3/10/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phép thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Hội chính thức được thành lập gồm nhiều đoàn thể phụ nữ trong đó Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là tổ chức nòng cốt, hoạt động trong khuôn khổ là một tổ chức thành viên của Hội LHPN Việt Nam. Ngày 20/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam làm lễ ra mắt tại Quảng trường Nhà hát Lớn, Hà Nội. Đồng chí Lê Thị Xuyến được cử làm Hội trưởng lâm thời Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tên gọi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được duy trì cho đến ngày nay. Từ ngày 18 - 29/4/1950: Đại hội Đại biểu Phụ nữ Toàn quốc lần thứ nhất được diễn ra tại Đại Từ, Thái Nguyên (Chiến khu Việt Bắc). Đoàn Phụ nữ Cứu quốc hợp nhất với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành một tổ chức Hội thống nhất lấy tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam. Đồng chí Lê Thị Xuyến được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN Việt Nam đã vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia thực hiện nhiều phong trào như: phụ nữ học cày bừa; phụ nữ tăng gia sản xuất đảm bảo cho bộ đội “ăn no đánh thắng”; mua công phiếu kháng chiến; “Diệt giặc dốt”; “diệt giặc đói”: “Đời sống mới”; tham gia Hội mẹ chiến sĩ… Trong 18 chiến dịch lớn của cả nước, phụ nữ đã đóng góp 9.578.000 ngày công. Cũng trong giai đoạn này, lực lượng phụ nữ tham gia dân quân du kích ngày càng nhiều. Tiêu biểu là đội “nữ du kích Hoàng Ngân” thu hút 7.365 chị em tham gia. Các chị đã cùng quân dân tỉnh Hưng Yên đánh hơn 1.000 trận, lập chiến công lẫy lừng. Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân còn được Bộ Quốc phòng tổng kết kinh nghiệm và nhân rộng điển hình, phổ biến cho các tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và miền Bắc… Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, phụ nữ các dân tộc Tày, Thái, Mèo, Dao, Nùng, Hoa, Puộc, Xá… đã tham gia đông đảo. Chị em đã ngày đêm vượt suối, băng ngàn, làm mọi công việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, đạn dược, tải thương, thổi cơm, đưa nước cho bộ đội, làm hầm, chữa cầu đường… Có thể nói, Hội LHPN Việt Nam đã bằng mọi nỗ lực vận động chị em phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Giai đoạn 1954 - 1975: kháng chiến chống đế quốc Mỹ ở miền Nam và xây dựng CNXH ở miền Bắc
Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, miền Bắc xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Nhằm tập hợp rộng rãi lực lượng cách mạng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, Đại hội III của Đảng đã chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam. Ngày 20/12/1960, tại vùng giải phóng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính trị. Cùng với đó, ngày 8/3/1961, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập với vai trò tập hợp phụ nữ miền Nam Việt Nam đoàn kết trên mặt trận giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tổ chức Hội phụ nữ hai miền Nam Bắc thực hiện những nhiệm vụ, hoạt động phù hợp với từng miền và cùng hướng tới mục tiêu chung là đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Đồng thời, tổ chức Hội hai miền phát động phong trào riêng, có tác động lan tỏa và sâu rộng trong các cấp Hội phụ nữ.
Tháng 3/1961, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III họp tại Hà Nội đã phát động phong trào thi đua “5 tốt” với các nội dung: Đoàn kết sản xuất, tiết kiệm tốt, chấp hành chính sách tốt, tham gia quản lý tốt, học tập chính trị, văn hoá, kỹ thuật tốt, xây dựng gia đình nuôi dạy con tốt. Ngày 5/8/1964, Đế quốc Mỹ dựng lên cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, lấy cớ dùng không quân bắn phá miền Bắc. Trước tình hình đó, tháng 3/1965, Trung ương Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào “Ba đảm đang” với các nội dung: đảm đang sản xuất và công tác, đảm đang gia đình, đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Phong trào Ba đảm đang là bước phát triển mới của phong trào 5 tốt, trở thành nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của Hội LHPN Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975, là một trong những phong trào thi đua có quy mô lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời kì hiện đại, trở thành hoạt động nổi bật, tiêu biểu trong lịch sử tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam và là bộ phận khăng khít của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đại hội lần thứ nhất Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam (3/1965), Hội đã phát động phong trào thi đua “5 tốt” với nội dung: Đoàn kết đấu tranh chính trị, võ trang, binh vận tốt; Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt; Chăm sóc, nuôi dưỡng thương bệnh binh tốt; Học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn tốt; Rèn luyện tư cách đạo đức tốt.. Với phong trào “5 tốt”, hàng triệu hội viên phụ nữ giải phóng được tôi luyện trong phong trào đấu tranh với 3 mũi giáp công linh hoạt, được tổ chức chặt chẽ ở ba vùng chiến lược (nông thôn, đô thị, miền núi). Trên khắp miền Nam, phụ nữ giải phóng luôn là lực lượng nòng cốt đi đầu trong phong trào đấu tranh chính trị trực diện, hình thành nên một “Đội quân tóc dài” hùng hậu, nổi tiếng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Phụ nữ miền Nam đã anh dũng thi đua giết giặc, trong gian nan vẫn một lòng trung kiên, bất khuất. Thi đua với phụ nữ Nam bộ, những tấm gương phụ nữ miền Bắc anh dũng của Đại đội pháo nữ dân quân Ngư Thuỷ (Quảng Bình) bắn cháy liên tiếp 3 tàu chiến Mỹ hay của Trung đội nữ dân quân Hoằng Hải (Thanh Hóa) bắn rơi máy bay Mỹ… đã khẳng định trí tuệ, sáng tạo và tinh thần kiên cường, quật khởi của các tầng lớp phụ nữ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (19/10/1966), Hồ Chủ tịch đánh giá: “Phong trào 5 tốt của phụ nữ miền Nam, phong trào Ba đảm đang của phụ nữ miền Bắc là phong trào yêu nước nồng nàn và rộng khắp, lôi cuốn đông đảo phụ nữ hai miền thi đua sản xuất, phục vụ chiến đấu, góp phần to lớn vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của toàn dân”
Hội LHPN Việt Nam - phát triển và hội nhập
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, thực hiện Nghị quyết của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc thống nhất các đoàn thể nhân dân, từ ngày 10-12/6/1976, Hội nghị Thống nhất Hội LHPN toàn quốc được tổ chức. Hội nghị đã nhất trí quyết nghị: Thống nhất sự chỉ đạo hoạt động của Hội LHPN trong cả nước trong một tổ chức là Hội LHPN Việt Nam. Hội nghị cũng quyết định lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam. Đến năm 2010, tại thông báo số 382-TB/TW ngày 15/10/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Bí thư đồng ý lấy ngày 20/10 hàng năm là ngày Phụ nữ Việt Nam.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày một lớn mạnh không ngừng, đã và đang phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; kế thừa các thành quả to lớn của phong trào phụ nữ và hoạt động Hội; bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, tiếp tục xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và chức năng đại diện của tổ chức Hội. Hội đã đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, chuyên nghiệp; tập trung tham mưu, đề xuất chính sách, giám sát, phản biện xã hội; tăng cường vận động xã hội, tích cực hội nhập quốc tế; chăm lo tốt hơn lợi ích chính đáng của phụ nữ, tạo động lực động viên đông đảo phụ nữ phát huy dân chủ, cần cù, năng động, sáng tạo, trách nhiệm xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững, xây dựng gia đình hạnh phúc, nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và tổ chức Hội, thực hiện mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới. Hưởng ứng phong trào thi đua và các cuộc vận động của đất nước, Hội vận động hội viên, phụ nữ trong cả nước thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và hai cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”; “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phối hợp với các Bộ, Ban, ngành, đoàn thể liên quan tích cực thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đề án của Chính phủ; có những đề xuất tham mưu chính sách, phát động nhiều phong trào góp phần quan trọng vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và xây dựng đất nước. Hội đã đạt được những bước tiến dài trên con đường tạo lập vị thế bình đẳng cho phụ nữ Việt Nam với việc Bộ Chính trị ban hành các Nghị quyết của Đảng về công tác phụ nữ (Nghị quyết 04 (năm 1993); Nghị quyết 11 (2007) và sự ra đời của Luật Bình đẳng giới, thực hiện chính sách thai sản cho phụ nữ, các quy định trong Bộ luật lao động liên quan đến lao động nữ…
Những dấu ấn đáng ghi nhớ trong phong trào phụ nữ và hoạt động Hội từ 1976 đến nay
- Năm 1978: Phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Năm 1989: Hội LHPN Việt Nam phát động hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ VII (1992): tiếp tục thực hiện hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII (19/5/1997): phát triển hai phong trào thi đua từ Đại hội VII thành phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”; Phong trào “Ngày tiết kiệm vì Phụ nữ nghèo”; Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục phát động phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” thực hiện trong nữ công nhân viên chức và người lao động;
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX (2002): tiếp tục phát động phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ X (01/10/2007): tiếp tục phát động phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ xây dựng Mái ấm tình thương cho phụ nữ nghèo. Năm 2010, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, hưởng ứng chương trình xây dựng nông thôn mới, Hội phát động cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (2012) phát động phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; đồng thời triển khai sâu rộng 2 cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh và “Rèn luyện các phẩm chất đạo đức: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ XII (2017): Phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và hai cuộc vận động: “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Có thể nói, trải qua lịch sử 90 năm trưởng thành và phát triển, dưới sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Hội LHPN Việt Nam đã và đang ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước và sự nghiệp giải phóng phụ nữ, sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội LHPN Việt Nam xứng đáng là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật có ý nghĩa chiến lược về công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, các cấp Hội trong nước đã tổ chức thực hiện được nhiều chương trình hoạt động, tuyên truyền vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để phụ nữ tiến bộ, bình đẳng. Tổ chức Hội được củng cố và phát triển, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ Hội nhiệt tình, tâm huyết, phấn đấu nâng cao năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Hội cũng phát huy vai trò, mở rộng hợp tác, thực hiện tốt công tác đối ngoại nhân dân, chú trọng phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, tích cực tham gia các cơ chế đa phương.
|
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Kèm theo Hướng dẫn số 79-HD/BTGTU, ngày 03 tháng 8 năm 2020 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ninh)
I. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 – SỰ KIỆN VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC
1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin.
Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở Châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao.
Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp.
Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức.
Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân.
Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời.
23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam...
Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội.
Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu...
Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
2. Nguyên nhân thắng lợi
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Cách mạng tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
- Cách mạng tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
4. Một số bài học kinh nghiệm
Cách mạng tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945.
Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
II. THÀNH TỰU 75 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
1. Giành chiến thắng vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế
a. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát huy cao độ sáng tạo, khéo léo, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, đi đến bến bờ vinh quang; lãnh đạo nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai với phương châm vừa kiến quốc vừa kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.
Năm 1945-1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6/01/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo.
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
b. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng nhưng đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới. Toàn thể nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn địa của cách mạng cả nước; cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trải qua nhiều giai đoạn, nhân dân ta phải lần lượt đối phó với các chiến lược chiến tranh tàn bạo, xảo quyệt của kẻ thù. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, qua 21 năm chiến đấu anh dũng (1954-1975), chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Đối với cách mạng ở miền Bắc, Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960); đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961-1965); chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương (1965-1968); khôi phục và phát triển kinh tế, không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1969-1973); khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975). Đối với cách mạng ở miền Nam, Đảng ta lãnh đạo đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, nhất là “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969-1973) và “đánh cho ngụy nhào” (1973-1975). Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế, có tính thời đại sâu sắc.
c. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đưa đất nước ta bước vào thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tập trung trí lực, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, chúng ta gặp nhiều khó khăn lớn. Một mặt, chúng ta phải giải quyết hậu quả 30 năm chiến tranh; mặt khác, phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế; lại bị bao vây, cấm vận. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc quyết tâm đồng lòng vượt qua khó khăn, nhanh chóng khôi phục sản xuất, xây dựng, củng cố chính quyền trên phạm vi cả nước, ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mười năm cả nước tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội (1975-1985) là mười năm Đảng ta tìm tòi con đường đổi mới. Đây cũng là thời kỳ tư duy mới được hình thành từng bước bắt nguồn từ thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu và khuyết điểm trong mười năm ấy đã để lại những bài học quý giá cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
2. Đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đưa ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua các kỳ đại hội, từ Đại hội lần thứ VII đến Đại hội lần thứ XII, Đảng luôn khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng ta không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từng bước củng cố và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Qua gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, văn hóa xã hội không ngừng phát triển. Việt Nam đã vượt qua ngưỡng nước nghèo, chậm phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình; đang thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế...
Công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một sự nghiệp thật sự sáng tạo của nhân dân ta; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
III. PHÁT HUY THÀNH QUẢ, KINH NGHIỆM TRONG 75 NĂM QUA, TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN, ĐỒNG BỘ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, ĐƯA ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. 75 năm qua, kể từ ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, cách mạng Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn, nhiều bước ngoặt và vượt qua nhiều thử thách lớn, giành thắng lợi vĩ đại, đưa đất nước phát triển. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.
2. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta tiếp tục vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
3. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013), thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phấn đấu thực hiện các mục tiêu: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2-9 trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thi đua lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng ta càng hiểu rõ hơn giá trị của Cách mạng Tháng Tám; nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng Tháng Tám, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 75 năm qua vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ QUẢNG NINH
|
THỂ LỆ CUỘC THI “Gia đình an toàn trước thiên tai và biến đổi khí hậu”
Thiên tai, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang xảy ra và có tác động trực tiếp, gây hậu quả nặng nề đến đời sống từng gia đình tại nhiều địa phương. Để góp phần giảm thiểu rủi ro và hậu quả do thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường gây ra, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Plan Intenational và Trung tâm Live&Learn Việt Nam phát động cuộc thi tìm kiếm các sáng kiến, giáp pháp, với chủ đề “Gia đình an toàn trước thiên tai và biến đổi khí hậu”, với mong muốn lan tỏa đến cộng đồng, gia đình và từng cá nhân ý thức phòng chống thiên tai, giảm nhẹ biến đổi khí hậu và các hành động bảo vệ môi trường; hướng tới xây dựng môi trường sống an toàn trước thiên tai và biến đổi khí hậu.
Cuộc thi nằm trong khuôn khổ tài trợ từ Dự án “Vì một thế giới đảm bảo quyền trẻ em và bình đẳng cho trẻ em gái, tập trung vào việc thúc đẩy hệ thống chăm sóc, giáo dục an toàn và thân thiện với trẻ em tại Lai Châu và Kon Tum, Việt Nam” do Chính phủ Bỉ tài trợ thông qua tổ chức Plan International; Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và tổ chức Live&Learn Việt Nam phối hợp triển khai thực hiện tại Việt Nam.
1. Mục đích
- Tìm kiếm, thúc đẩy những sáng kiến, giải pháp có thể áp dụng vào thực tiễn góp phần xây dựng môi trường sống an toàn, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và hành động vì môi trường.
- Tăng cường nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua hoạt động truyền thông trước, trong và sau cuộc thi thông qua nghiên cứu, đề xuất các sáng kiến tham gia cuộc thi.
2. Đối tượng dự thi
- Mọi tập thể, đơn vị, cá nhân đang sinh sống, làm việc tại Việt Nam, không phân biệt lứa tuổi, thành phần, dân tộc, nghề nghiệp đều có quyền tham gia cuộc thi.
- Khuyến khích tác phẩm dự thi của trẻ em có sự tham gia hỗ trợ của các thành viên trong gia đình.
- Cuộc thi được phát động trên phạm vi toàn quốc
3. Thời gian phát động
- Từ ngày công bố cuộc thi đến hết ngày 31/05/2021.
- Công bố kết quả và trao giải cuộc thi: Dự kiến tuần từ 21-25/6/2021.
4. Nội dung và hình thức bài thi
4.1. Yêu cầu đối với nội dung: Các tác phẩm làm nổi bật yếu tố gia đình (ông bà hoặc cha mẹ hoặc anh chị em) cũng như yếu tố cộng đồng (người dân có cả nam và nữ) cùng nhau tham gia thực hiện hoặc xuất hiện trong tác phẩm có nội dung:
- Các sáng kiến, giải pháp đã được triển khai tại cộng đồng nơi bạn sinh sống giúp mọi người an toàn trước thiên tai hoặc giúp bảo vệ môi trường trước biến đổi khí hậu…
- Các sáng kiến, giải pháp đã được triển khai nhằm nâng cao nhận thức cho mọi người dân đặc biệt là trẻ em và phụ nữ để giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và hành động vì môi trường.
- Phù hợp với văn hóa, luật pháp Việt Nam.
4.2. Yêu cầu về hình thức bài dự thi
- Không giới hạn cách thức thể hiện tác phẩm/ sáng kiến: Sáng kiến có thể dưới hình thức video, ảnh chụp, tranh vẽ, powerpoint ……
- Sáng kiến được mô tả ngắn gọn mục đích, đối tượng hưởng lợi, cách thức triển khai.
5. Tiêu chí và phương thức chấm giải:
- Nội dung /30 điểm
- Hình thức /20 điểm
- Sự sáng tạo /20 điểm
- Có sự tham gia của gia đình và cộng đồng /30 điểm
6. Cơ cấu giải thưởng
- Ban tổ chức sẽ chọn ra các sáng kiến, giải pháp hay và có tính ứng dụng cao để tổ chức tổng kết, đánh giá và trao giải thưởng. Các cá nhân/ tập thể có bài dự thi hay và tính ứng dụng hiệu quả sẽ được Ban tổ chức mời tham dự tổng kết, đánh giá và trao giải thưởng.
- Giải thưởng có thể bằng tiền mặt hoặc hiện vật có giá trị tương đương theo cơ cấu giải thưởng như sau:
TT
|
Nội dung Giải thưởng
|
Số lượng
|
Mức giải
Tập thể
|
Mức giải
Cá Nhân
|
1
|
Giải nhất
|
1
|
5.000.000
|
2.000.000
|
2
|
Giải nhì
|
2
|
4.000.000
|
1.000.000
|
3
|
Giải ba
|
3
|
3.000.000
|
500.000
|
4
|
Giải bình chọn onl
|
4
|
1.000.000
|
500.000
|
5
|
Giải phụ:
- Giải có lượt like và share nhiều nhất trên Facebook
- Có tính sáng tạo/ấn tượng
|
10
|
1.000.000
|
500.000
|
7. Nộp, nhận hồ sơ dự thi
- Tác phẩm dự thi có thể gửi trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện theo địa chỉ: Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (thông qua Ban Quản lý dự án Vì một thế giới đảm bảo quyền trẻ em và bình đẳng cho trẻ em gái), 68 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội. Điện thoại: 0243 9720252
Hoặc gửi theo địa chỉ email: ttbdkh@gmail.com
(Tiêu đề: TĐNLCCM - Tên tác giả/ nhóm tác giả)
- Thời hạn tiếp nhận bài thi: Bắt đầu từ khi công bố Thể lệ cuộc thi đến hết ngày 31 tháng 05 năm 2021.
* Lưu ý:
- Mỗi tác giả/ nhóm tác giả có thể gửi nhiều bài dự thi
- Các tác phẩm, bài dự thi được tiếp nhận và lưu trữ cho tới ngày công bố kết quả cuộc thi. Ban tổ chức sẽ không trả hồ sơ dự thi cho các tác giả.
Trên đây là Thể lệ cuộc thi “Gia đình an toàn trước thiên tai và biến đổi khí hậu”. Đề nghị các cá nhân, tổ chức, đơn vị tham dự Cuộc thi tuân thủ các yêu cầu quy định tại Thể lệ cuộc thi nêu trên.
BAN TỔ CHỨC
|
Tài liệu sinh hoạt hội viên, phụ nữ: Học tập Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII
Hiện nay, cả nước đang triển khai việc quán triệt, học tập Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Ban Tuyên giáo TW Hội LHPN Việt Nam biên soạn tài liệu dành cho sinh hoạt hội viên, phụ nữ về Học tập Nghị quyết.
Cổng Thông tin điện tử Hội LHPN Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tài liệu:

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; UV BCT, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; UV BCT, Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân; UV BCT, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng cùng các đồng chí Đoàn Chủ tịch chụp ảnh lưu niệm
với đại biểu nữ tham dự Đại hội XIII của Đảng (ảnh: dangcongsan)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng được diễn ra từ ngày 25/01/2021 đến ngày 01/02/2021 tại Thủ đô Hà Nội, có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (2016 - 2020); nhìn lại 35 năm đổi mới; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng.
Câu 1: Vì sao Đại hội XIII của Đảng thành công rất tốt đẹp?
Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo; đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen với nhiều khó khăn, thách thức, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết; cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Sau 7 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và trách nhiệm, với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, Đại hội đã thành công rất tốt đẹp, rút ngắn được gần 2 ngày so với kế hoạch. Đại hội thành công một cách thực sự cả về nội dung, hình thức, cách thức tổ chức, lề lối làm việc, cụ thể:
- Việc chuẩn bị các văn kiện công phu, kỹ lưỡng, bài bản, khoa học. Công tác văn kiện được làm suốt từ năm 2018, sửa đến 80 lần, lấy ý kiến các cấp, các ngành, các cơ quan và được đăng toàn văn trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân. Riêng các cấp Hội Phụ nữ đã có hơn 7.200 cán bộ, hội viên, phụ nữ, chuyên gia tham gia 4 Hội thảo cấp Trung ương và gần 1,2 triệu lượt ý kiến tham gia đóng góp vào các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Văn kiện trình Đại hội là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Khi ra Đại hội, có báo cáo tổng hợp chung về các văn kiện trình, bao gồm tóm tắt tất cả các nội dung lớn trình Đại hội, đây là một cách làm mới.
- Công tác nhân sự được chuẩn bị chu đáo, thận trọng, khách quan, công tâm, làm từng bước, từ dễ đến khó, rộng đến hẹp và rất cẩn trọng. Việc chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương và dự kiến nhân sự cơ quan lãnh đạo khác được làm từng bước, lấy ý kiến của các cơ quan, khi đưa ra Đại hội chỉ bầu xong trong một lần, có sự thống nhất cao và nhanh.
- Công tác tổ chức, phục vụ Đại hội rất chu đáo, cẩn thận, từ nơi ăn chốn ở, phương tiện đi lại cho các đại biểu, đến cách thức làm việc, tạo mọi điều kiện cho các đại biểu về dự Đại hội; đồng thời bảo đảm an toàn tuyệt đối, nhất là trong thời điểm dịch bệnh Covid-19 đang xảy ra. Các cơ quan thông tấn, báo chí tham gia đông nhất trong các kỳ Đại hội, đóng góp quan trọng cho thành công Đại hội, tiếp tục “truyền cảm hứng”, khí thế của Đại hội trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, tạo sức mạnh, bước tiến cho đất nước tiếp tục phát triển.
Đại hội XIII của Đảng đã tạo ra không khí tin cậy lẫn nhau, phấn khởi, hồ hởi và vui mừng khi đất nước phát triển, đặc biệt đã thông qua được Nghị quyết, bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm sớm đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống; các nội dung, quan điểm nêu trong Nghị quyết sẽ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành những chủ trương, chỉ đạo quyết liệt, thống nhất từ trên xuống dưới, mang lại của cải vật chất để nước phải giàu, dân phải mạnh, đời sống nhân dân sung sướng hơn.
Câu 2: Nội dung cốt lõi trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng?
Đại hội XIII của Đảng có nhiều văn kiện quan trọng, nội dung cốt lõi trong các văn kiện đó là:
- Kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh bền vững.
- Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người.
- Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ.
- Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
- Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Quản lý và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
- Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân.
- Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Câu 3: Kết quả chủ yếu trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; diện mạo đất nước sau 35 năm đổi mới?
1. Kết quả chủ yếu trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm và cải thiện đáng kể. Tăng trưởng kinh tế đạt khá cao trong bối cảnh thế giới, khu vực gặp nhiều khó khăn; chất lượng được nâng lên, năng suất lao động được cải thiện rõ nét. Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực. Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên; tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế được cải thiện. Phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả quan trọng. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được bảo đảm, có cải thiện. Xây dựng nông thôn mới hoàn thành sớm gần 2 năm so với mục tiêu Chiến lược đề ra. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng trong các lĩnh vực giảm nghèo, y tế, dân số, giáo dục và đang tích cực triển khai thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai được tăng cường. Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước căn bản, nhất là pháp luật về kinh tế khá đầy đủ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực. Xử lý nghiêm nhiều vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, xã hội quan tâm, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, thực chất hơn, đạt kết quả quan trọng nhiều mặt.
2. Diện mạo đất nước sau 35 năm thực hiện công cuộc đối mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Câu 4: Mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể trong nhiệm kỳ Đại hội XIII?
1. Mục tiêu tổng quát:
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đối mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Câu 5: Những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng?
- Sáu nhiệm vụ trọng tâm:
1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
2) Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắcxin Covid-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đối mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhất là trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bố, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự; khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.
3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Ba đột phá chiến lược:
1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
2) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nên tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Câu 6: Kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, nhiệm kỳ 2021 - 2026?
- Đại hội XIII của Đảng đã thực hiện quy trình bầu cử theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế bầu cử tại Đại hội, thảo luận dân chủ, thống nhất cao số lượng; Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Ủy viên chính thức, 20 đồng chí Ủy viên dự khuyết tiêu biểu cho hơn 5,1 triệu đảng viên trong cả nước.
- Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII như sau:
+ Ban Chấp hành Trung ương đã bầu 18 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, trong đó có 8 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII tái cử và 10 đồng chí lần đầu tham gia.
+ Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất rất cao bầu đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tái cử Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
+ Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị phân công một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị tham gia Ban Bí thư. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu 5 đồng chí vào Ban Bí thư.
+ Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII gồm 19 đồng chí. Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị được bầu tiếp tục làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII.
Câu 7: Công tác phụ nữ được xác định như thế nào trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng?
Tại mục 1 thuộc phần XII về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyết tâm làm chủ của nhân dân, Nghị quyết xác định “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”.
Câu 8: Hội viên, phụ nữ cần làm gì để thực hiện tốt các nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII?
Nghiên cứu, học tập và thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là nhiệm vụ của mỗi người dân, trong đó có các tầng lớp phụ nữ. Quá trình nghiên cứu, học tập là cơ hội giúp hội viên, phụ nữ hiểu và nắm được những thành tựu trên từng lĩnh vực của địa phương, của đất nước; những khó khăn, tồn tại, nguyên nhân và các giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Từ đó, mỗi hội viên, phụ nữ có kế hoạch hành động cụ thể cho bản thân, xây dựng gia đình hạnh phúc góp phần phát triển đất nước và “xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới”[1].
Đối với hội viên phụ nữ nói chung:
- Tìm hiểu kỹ những nội dung trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đặc biệt những nội dung liên quan đến phụ nữ, trẻ em và gia đình.
- Nghiêm túc thực hiện chủ trương của Đảng, chấp hành đúng, đầy đủ luật pháp và chính sách của Nhà nước, chấp hành và thực hiện đầy đủ các quy định trong hương ước, quy ước tại cơ sở; tích cực thực hiện phong trào thi đua, các cuộc vận động của đất nước, của Hội, của địa phương.
- Tham gia đầy đủ và tích cực đóng góp ý kiến tại các buổi sinh hoạt chi/tổ phụ nữ, các cuộc họp tại khu dân cư; các cuộc truyền thông do Hội tổ chức; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới, các chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước, của địa phương.
- Tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, phù hợp với bản thân và gia đình, tập trung vào thực hành tiết kiệm và rèn luyện các phẩm chất đạo đức “Tự tin, Tự trọng, Trung hậu, Đảm đang”.
- Phát huy nội lực tạo sự chủ động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh; thay đổi tư duy sản xuất, dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; tham gia các phong trào phát triển kinh tế do Hội phát động nhằm sử dụng và phát huy hiệu quả đồng vốn, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống, vươn lên làm giàu chính đáng.
- Tích cực tham gia công tác bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, hải đảo của Tổ quốc; tham gia quản lý đường biên cột mốc; đấu tranh chống các hoạt động vi phạm biên giới, xâm canh, xâm cư lấn chiếm biên giới, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, bạo hành phụ nữ và các tệ nạn xã hội khác.
- Tích cực tham gia phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục thể thao; mỗi người lựa chọn một môn thể thao thích hợp để rèn luyện sức khỏe góp phần nâng cao thể chất, trí tuệ và tầm vóc người Việt Nam; tham gia giao lưu văn hóa, quảng bá văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế.
- Đoàn kết, gìn giữ và phát huy tinh thần tương thân, tương ái, hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng; tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, thăm hỏi tặng quà động viên các gia đình chính sách, gia đình các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở biên giới, hải đảo; đỡ đầu, chăm sóc Mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ liệt sỹ cô đơn có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa; quyên góp, ủng hộ đồng bào lũ lụt, giúp đỡ người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
- Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, của người phụ nữ Việt Nam; đồng thời phê phán, đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, cờ bạc, mê tín dị đoan, lãng phí trong việc hiếu, hỷ, lễ hội...; tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức góp phần tạo dựng hình ảnh đẹp về người phụ nữ Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
- Tổ chức tốt cuộc sống gia đình, gắn kết các thành viên bằng tình yêu thương, tạo dựng sự đoàn kết, hoà thuận trong gia đình; vận động chồng, con và người thân trong gia đình sống và làm theo pháp luật; đăng ký và cam kết thực hiện “gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với xây dựng gia đình văn hoá và xây dựng nông thôn mới.
- Chủ động, tích cực học tập, nghiên cứu, nâng cao kiến thức, kỹ năng, trình độ đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số, kinh tế tri thức. Quan tâm, vận động, giáo dục con cái tích cực học tập, nghiên cứu, sáng tạo, có khát vọng vươn lên làm chủ tri thức, công nghệ tiên tiến, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Bên cạnh các nội dung trên, các chị em phụ nữ trong diện dưới đây cần:
Phụ nữ doanh nhân: Hưởng ứng và hỗ trợ tích cực phong trào phụ nữ khởi nghiệp, góp phần xây dựng đội ngũ doanh nhân nữ lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng; luôn năng động, quyết đoán, mạnh dạn đầu tư, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất, kinh doanh nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm; nâng cao trách nhiệm xã hội, quan tâm phát triển các ngành nghề truyền thống góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam, thu hút lao động nữ, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
Phụ nữ trí thức: Phát huy trí tuệ, tâm huyết, năng lực sáng tạo với vai trò tiên phong, nòng cốt trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần phát triển nền kinh tế số, nền kinh tế trí thức; tích cực tham gia các hoạt động đào tạo, hỗ trợ, giúp đỡ, chuyển giao công nghệ mới nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập và phát triển sản xuất cho phụ nữ nông thôn, góp phần tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Phụ nữ nông dân: Tích cực, chủ động, nhạy bén, mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và quyết tâm thực hành sản xuất sạch, chế biến sạch, thực hiện bảo vệ môi trường; chủ động xây dựng thương hiệu sản phẩm nông đặc sản góp phần đưa nông sản Việt Nam ra thị trường quốc tế; nâng cao kiến thức, kỹ năng và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu để chủ động xây dựng cơ cấu mùa vụ phù hợp; chủ động phối hợp với các nhà khoa học, doanh nghiệp để tạo chuỗi giá trị sản phẩm nông sản hiệu quả.
Phụ nữ công nhân: Chủ động nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, không ngừng sáng tạo, cải tiến trong quá trình sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm; nỗ lực phấn đấu trở thành các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; nâng cao đời sống tinh thần, hiểu biết văn hóa - xã hội, chủ động sắp xếp cuộc sống, nuôi dạy con cái, xây dựng gia đình hạnh phúc.
[1] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), NXB Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2021, trang169
|
Tài liệu sinh hoạt hội viên: Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2022-2027)
Nhằm giúp hội viên, phụ nữ nắm được các nội dung cơ bản của Nghị quyết, các chủ trương công tác lớn của Hội xuyên suốt trong nhiệm kỳ 2022-2027, Trung ương Hội LHPN Việt Nam biên soạn Tài liệu học tập Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII dành cho hội viên, phụ nữ.

Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII
Lời nói đầu
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII nhiệm kỳ 2022 - 2027 được long trọng tổ chức từ ngày 09 đến ngày 11/3/2022 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, thủ đô Hà Nội, phiên khai mạc chính thức vào sáng ngày 09/3/2022 với chủ đề “Đoàn kết - Sáng tạo - Hội nhập - Phát triển”. Sau 3 ngày làm việc với tinh thần đoàn kết, khẩn trương, nghiêm túc, Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2022 - 2027) đã thành công rất tốt đẹp. Đại hội đã đánh giá phong trào phụ nữ và kết quả hoạt động của Hội nhiệm kỳ 2017 - 2022, kiểm điểm hoạt động của Ban Chấp hành khoá XII và bầu Ban Chấp hành khoá XIII, đề ra phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2022 - 2027, thông qua toàn văn dự thảo Điều lệ Hội LHPN Việt Nam (sửa đổi, bổ sung), Nghị quyết Đại hội với 8 chỉ tiêu cơ bản.
Nhằm giúp hội viên, phụ nữ nắm được các nội dung cơ bản của Nghị quyết, các chủ trương công tác lớn của Hội xuyên suốt trong nhiệm kỳ, Trung ương Hội LHPN Việt Nam biên soạn Tài liệu học tập Nghị quyết Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII dành cho hội viên, phụ nữ. Chúng tôi tin tưởng rằng, mỗi hội viên, phụ nữ luôn nắm vững những nội dung chính của Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, tích cực hưởng ứng, chủ động tham gia vào các hoạt động do Hội tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ của hội viên góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, tiến bộ của phụ nữ, xây dựng gia đình hạnh phúc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ban Tuyên giáo - Trung ương Hội LHPN Việt Nam
Câu hỏi 1: Vì sao Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII thành công tốt đẹp?
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII được tổ chức thành công tốt đẹp thể hiện trên 5 phương diện:
Thứ nhất, việc chuẩn bị dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc XIII được tiến hành công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp. Báo cáo chính trị được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu vận dụng chủ trương, định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chiến lược, các chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan trực tiếp tới công tác phụ nữ và bình đẳng giới thông qua triển khai 19 đề tài[1], 07 chuyên đề nghiên cứu và 04 hội thảo khoa học cấp quốc gia, vùng miền, chuyên đề; Chiến lược phát triển Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2035; Phát huy dân chủ trí tuệ thông qua lấy ý kiến đóng góp từ Đại hội phụ nữ 3 cấp; tổ chức 42 cuộc họp/hội thảo xin ý kiến Đoàn Chủ tịch, Ban Chấp hành TW Hội; các chuyên gia, đại diện các ban Đảng, bộ, ngành, đoàn thể. Trong quá trình soạn thảo Báo cáo chính trị, Đoàn Chủ tịch TW Hội đã nhận được sự chỉ đạo sát sao của Ban Bí thư, cập nhật được sự thay đổi của tình hình, nhất là tác động của đại dịch Covid-19.
Thứ hai, sự thành công về công tác nhân sự, kỹ lưỡng, nhiều mặt, chặt chẽ, dân chủ, khách quan, công tâm để Đại hội bầu được Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa XIII có đủ phẩm chất, năng lực đảm nhận được nhiệm vụ nhiệm kỳ tới.
Thứ ba, việc đa dạng các hình thức thảo luận, trao đổi thông tin cũng là điểm đổi mới trong kỳ Đại hội lần này. Tại Đại hội đã có 62 tham luận dạng bài viết và video clip được tập hợp thành kỷ yếu để các cấp Hội tiếp tục nghiên cứu, áp dụng trong quá trình triển khai Nghị quyết Đại hội. Trong đó, có 18 tham luận và 10 clip trình bày tại các phiên toàn thể của Đại hội. Việc chia 5 Trung tâm thảo luận với các chủ đề khác nhau là diễn đàn để các đại biểu tham gia tập trung, sâu theo các nhóm chủ đề. Đồng thời, Đại hội tổ chức thảo luận theo đoàn về các nội dung: Xây dựng các sáng kiến hành động vì phụ nữ và trẻ em và hoạt động cụ thể triển khai Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc XIII sau khi kết thúc Đại hội. Kết quả: 70 đoàn đại biểu đã xác định 260 hoạt động cụ thể để triển khai Nghị quyết. Đối với các sáng kiến về phụ nữ và trẻ em: 959 đại biểu đã xác định được 5.761 sáng kiến vì phụ nữ và trẻ em tập trung vào các lĩnh vực: đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em; chăm sóc về vật chất, tinh thần cho phụ nữ.
Thứ tư, công tác tuyên truyền trước, trong sau Đại hội được thực hiện rầm rộ, sôi nổi, khí thế ở tất cả các cấp Hội trong cả nước. Nội dung tuyên truyền được chuẩn bị sớm, kỹ lưỡng với nhiều hình thức truyền thông trên nhiều nền tảng mạng xã hội mang lại hiệu quả truyền thông tích cực. Nhiều tỉnh/thành phố phổ biến tuyên truyền cho cán bộ, hội viên phụ nữ theo dõi truyền hình trực tiếp phiên khai mạc Đại hội, phát trailer về Đại hội trên các trang Fanpage, nhiều tin bài, phóng sự về Đại hội được đăng tải thực hiện trên các Đài, báo trung ương và địa phương.
Thứ năm, công tác tổ chức Đại hội về hậu cần, an ninh đảm bảo chu đáo, an toàn. Trong quá trình tổ chức, Đại hội đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình từ các đơn vị, tổ chức đã đồng hành cùng Hội LHPN Việt Nam để tổ chức thành công sự kiện.
Câu hỏi 2: Kết quả chủ yếu trong 5 năm của phong trào phụ nữ và kết quả hoạt động của Hội nhiệm kỳ 2017 - 2022?
5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tạo điều kiện của Chính phủ, chính quyền các cấp, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội, các lực lượng phụ nữ và các cấp Hội LHPN Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII, nhiệm kỳ 2017 - 2022. Có thể kể đến năm điểm nổi bật của phong trào phụ nữ nhiệm kỳ qua:
Một là, các tầng lớp phụ nữ đã nỗ lực vượt khó, sáng tạo vươn lên, mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ, phát huy vai trò làm chủ, tham gia tích cực vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên mọi khu vực, ngành nghề của nền kinh tế, lực lượng lao động nữ, nữ doanh nhân đã đóng góp đáng kể vào thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, chương trình quốc gia khởi nghiệp, góp phần khẳng định chất lượng và khả năng cạnh trạnh của sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.
Hai là, với nỗ lực quyết tâm của cả hệ thống chính trị, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, đặc biệt, lần đầu tiên kể từ khi đất nước thực hiện công cuộc Đổi mới, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 30%, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước. Phụ nữ ngày càng ý thức được trách nhiệm và quyền công dân, phát huy quyền làm chủ, tham gia tích cực trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Ba là, phụ nữ tiếp tục thực hiện tốt thiên chức người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, là điểm tựa tinh thần, gắn kết yêu thương và chia sẻ trách nhiệm chăm lo xây dựng gia đình. Bằng tình yêu thương và trách nhiệm, phụ nữ đã trao truyền các giá trị văn hóa gia đình, đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Bốn là, trong bối cảnh thiên tai khắc nghiệt và dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, phụ nữ cả nước bằng tấm lòng yêu thương, nhân ái, đã phát huy cao độ trách nhiệm công dân, tham gia trên mọi mặt trận góp phần thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ổn định cuộc sống.
Năm là, trong tiến trình hội nhập toàn diện của đất nước, phụ nữ trong lực lượng vũ trang và lĩnh vực đối ngoại tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh đất nước, khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam như một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Đối với việc thực hiện nhiệm vụ công tác Hội, nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước diễn biến nhanh, phức tạp, có những vấn đề phát sinh chưa có tiền lệ, Hội LHPN các cấp đã nhanh chóng thích ứng, sáng tạo, linh hoạt đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ triển khai thắng lợi phong trào thi đua, các cuộc vận động và nhiệm vụ công tác Hội, góp phần nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho hội viên, phụ nữ. Có thể khái quát ở tám kết quả nổi bật như sau:
Một là, công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với học tập, làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục được đổi mới với nhiều hình thức và mô hình phong phú, tạo thành thói quen, việc làm thường xuyên của cán bộ, hội viên, phụ nữ với hàng chục nghìn tấm gương tiêu biểu học và làm theo Bác. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, các cấp Hội đã thích ứng linh hoạt bằng việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong nắm tình hình tư tưởng, truyền thông, vận động xã hội, phổ biến, giáo dục pháp luật đến hàng chục triệu hội viên, phụ nữ cả nước.
Hai là, công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, trọng tâm là cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” được triển khai đồng bộ, toàn diện, đã đóng góp đáng kể vào kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Đáng chú ý, 13 triệu gia đình hội viên đạt tiêu chí “5 không, 3 sạch”, gần 17 nghìn công trình/phần việc giữ gìn, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu do các chi Hội/tổ phụ nữ đảm nhiệm được triển khai linh hoạt, rộng khắp, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và khẳng định vai trò của tổ chức Hội ở cơ sở.
Ba là, với chủ đề xuyên suốt trong hơn nửa nhiệm kỳ, “An toàn cho phụ nữ và trẻ em”, các cấp Hội đã triển khai nhiều mô hình, hoạt động góp phần nâng cao trách nhiệm của xã hội và gia đình chung tay xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh. Hoạt động phối hợp trong tham gia giải quyết các vụ việc xâm hại và bạo lực nghiêm trọng đối với phụ nữ và trẻ em có chuyển biến rõ rệt và thực chất. Trong nhiệm kỳ đã ký kết phối hợp với 30 bộ/ngành, các cơ quan/tổ chức, trong đó có nhiều chương trình phối hợp để bảo vệ quyền của phụ nữ trẻ em, tạo nguồn lực cho các cấp Hội thực hiện nhiệm vụ chính trị và tăng cường lồng ghép giới trong tổ chức triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước. Vận động được trên 480 tỷ đồng và 730 nghìn phần quà san sẻ yêu thương cho hội viên, phụ nữ và nhân dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19; đỡ đầu gần 500 trẻ mồ côi. Trong nhiệm kỳ đã vận động được 746 tỷ đồng xây dựng và sửa chữa mái ấm tình thương và trên 3.000 tỷ đồng cho các hoạt động xã hội, từ thiện.
Bốn là, các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế được triển khai theo hướng tập trung đồng bộ các giải pháp, các nguồn lực, phát huy được nội lực của hội viên, phụ nữ, tiềm năng thế mạnh của từng địa phương, phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Thông qua các mô hình sinh kế tạo việc làm tại chỗ, mô hình hỗ trợ có điều kiện, các hoạt động tiết kiệm tại chi Hội/tổ Phụ nữ, các cấp Hội đã giúp hơn 2 triệu hộ nghèo, trong đó có gần 270 nghìn hộ thoát nghèo theo tiêu chí đa chiều. Với tinh thần quốc gia khởi nghiệp, Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025” đã thúc đẩy sự chủ động, sáng tạo của các cấp Hội trong tổ chức Ngày Phụ nữ khởi nghiệp, đề xuất các đề án/chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, đáp ứng khát vọng khởi nghiệp của phụ nữ thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi, qua đó đã hỗ trợ gần 73 nghìn phụ nữ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh; gần 12 nghìn mô hình kinh tế tập thể, gần 800 hợp tác xã được thành lập.
Năm là, nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội tiếp tục được đổi mới, hướng mạnh về cơ sở, chú trọng địa bàn có tỷ lệ tập hợp hội viên thấp, nâng cao chất lượng tổ chức Hội cơ sở. Bên cạnh mô hình tập hợp phụ nữ theo địa bàn hành chính, nhiều nơi đã mạnh dạn triển khai nhiều mô hình tập hợp phụ nữ theo lứa tuổi, sở thích, ngành nghề; thu hút phụ nữ tham gia hoạt động Hội thông qua nền tảng mạng xã hội. Từ đó góp phần tăng thêm 2 triệu hội viên và giảm 99,2% số cơ sở Hội có tỷ lệ tập hợp dưới 50% phụ nữ tham gia tổ chức Hội trong nhiệm kỳ (đến cuối nhiệm kỳ chỉ còn 8 cơ sở); tỷ lệ tập hợp hội viên đạt 75,42%. Đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp lại các đơn vị hành chính và yêu cầu tỉnh giản biên chế, các cấp Hội đã chú trọng kiện toàn bộ máy cơ quan chuyên trách, cải tiến phương pháp làm việc, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ Hội các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Sáu là, công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giám sát và phản biện xã hội, tham mưu, đề xuất chính sách của các cấp Hội ngày càng đi vào thực chất, tiệm cận với nhu cầu thiết thân của phụ nữ. Công tác phản biện xã hội đối với các dự thảo chính sách, luật pháp ngày càng có chất lượng, dựa trên bằng chứng khoa học, khảo sát thực tiễn, tham vấn các đối tượng hưởng lợi/bị tác động. Hội Liên hiệp Phụ nữ một số tỉnh/thành phố đã chủ động tham mưu tổ chức đối thoại với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để nắm bắt và giải quyết kịp thời các bức xúc, kiến nghị chính đáng của hội viên, phụ nữ. Đây thực sự là diễn đàn thực hành dân chủ, tạo sự đồng thuận, gắn kết “ý Đảng, lòng dân”, thể hiện trách nhiệm của các cấp Hội trong phát huy quyền dân chủ trực tiếp của phụ nữ.
Bảy là, công tác đối ngoại nhân dân và hợp tác quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Hội đã có nhiều sáng kiến thể hiện tình đoàn kết quốc tế, chủ động, khéo léo tham gia đấu tranh, vận động bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc tại các cơ chế quốc tế, góp phần thúc đẩy cam kết hành động thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, tiến bộ của phụ nữ. Trong nhiệm kỳ chỉ riêng Trung ương Hội đã vận động được 9,1 triệu đô la Mỹ cho các mô hình hoạt động mới và nâng cao năng lực cán bộ. Nghị quyết Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế lần đầu tiên được ban hành là cơ sở quan trọng trong mở rộng quan hệ đối tác, đáp ứng yêu cầu công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.
Tám là, trong nhiệm kỳ, Trung ương Hội đã tham mưu đề xuất thành công 03 Đề án của Chính phủ, cụ thể hóa nội dung hỗ trợ phụ nữ trong 03 chương trình mục tiêu quốc gia; các tỉnh/thành Hội tiếp tục tham mưu, đề xuất xây dựng hơn 600 chính sách trong nhiều lĩnh vực thiết thân đối với phụ nữ, qua đó huy động nguồn lực và sự tham gia của các cấp, các ngành vào công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Đặc biệt lần đầu tiên Hội được phân công xây dựng và chủ trì triển khai một dự án về thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em trong chương trình mục tiêu quốc gia “Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030” đã khẳng định vai trò nòng cốt của tổ chức Hội trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ.
Với những kết quả đó, trong nhiệm kỳ qua, trên 8.000 tập thể và 3.000 cá nhân đã được tặng Bằng khen của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam; gần 105.162 nghìn công trình, phần việc trị giá trên 625 tỉ đồng hướng tới chào mừng Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII.
Câu hỏi 3: Việc xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu và các nhiệm vụ hoạt động công tác Hội trong nhiệm kỳ mới và nhiều năm tiếp theo được dựa trên quan điểm nào?
Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam xác định trong một văn kiện 5 quan điểm có tính định hướng, đồng thời xác định tính chất, tầm quan trọng của các nhiệm vụ công tác Hội. Năm quan điểm là:
1. Bám sát, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, căn cứ thực tiễn và yêu cầu của phong trào phụ nữ trong giai đoạn mới, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng hoạt động Hội, thực hiện tốt chức năng đại diện, vai trò nòng cốt chính trị trong công tác phụ nữ của tổ chức Hội.
2. Lấy phát huy và kế thừa truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết của phụ nữ, đồng thời chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, đồng hành giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ là nhiệm vụ xuyên suốt; lấy hạnh phúc và lợi ích của phụ nữ là mục tiêu; lấy sự đồng thuận và tin tưởng của phụ nữ là thước đo chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Hội.
3. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, chủ động tham mưu, đề xuất hoàn thiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Hội.
4. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh hội nhập quốc tế; mở rộng tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện là nhiệm vụ then chốt để xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm, giỏi vận động phụ nữ, có khát vọng cống hiến là nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Hội.
Câu hỏi 4: Mục tiêu tổng quát và chỉ tiêu cụ thể trong 5 năm (nhiệm kỳ 2022 - 2027) được Đại hội đề ra như thế nào?
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là:
Phát huy truyền thống, tinh thần đoàn kết, sáng tạo, chủ động hội nhập, ý thức làm chủ của các tầng lớp phụ nữ; xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, tích cực xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Hội LHPN Việt Nam, khẳng định vị thế tổ chức tiên phong hành động vì hạnh phúc của phụ nữ, có tầm ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước.
Đại hội đã thống nhất 08 chỉ tiêu cơ bản của nhiệm kỳ 2022- 2027:
(1) Hằng năm, mỗi cơ sở Hội duy trì thường xuyên ít nhất 01 loại hình hoạt động để vận động phụ nữ nâng cao kiến thức, trau dồi đạo đức, rèn luyện sức khỏe.
(2) Hằng năm giúp 33.500 hộ có phụ nữ thoát nghèo, thoát cận nghèo; hỗ trợ nâng cao năng lực cho 17.000 phụ nữ là chủ doanh nghiệp, quản lý hợp tác xã, chủ hộ kinh doanh; đến cuối nhiệm kỳ, vận động, hỗ trợ thành lập mới 350 hợp tác xã có phụ nữ tham gia quản lý.
(3) Đến cuối nhiệm kỳ, các cấp Hội hỗ trợ 80% phụ nữ, trẻ em gái là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân mua bán người trở về được phát hiện tiếp cận ít nhất một dịch vụ trợ giúp xã hội.
(4) Hằng năm, mỗi cơ sở Hội vận động, hỗ trợ thêm 05 hộ gia đình đạt tiêu chí “gia đình 5 không, 3 sạch” hoặc “gia đình 5 có[2], 3 sạch” (đối với địa bàn xây dựng nông thôn mới nâng cao/kiểu mẫu), phấn đấu cả nước giúp được thêm 55.000 hộ gia đình đạt 8 tiêu chí; mỗi cơ sở Hội đăng ký và thực hiện 01 công trình/phần việc góp phần xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh.
(5) Đến cuối nhiệm kỳ, tăng thêm 800.000 hội viên; phấn đấu 100% cơ sở Hội tập hợp được trên 60% phụ nữ có mặt tại địa bàn.
(6) Đến cuối nhiệm kỳ, 100% cán bộ Hội chuyên trách các cấp sử dụng thành thạo các phần mềm cơ bản trong công tác Hội; 100% chi hội trưởng được tập huấn nghiệp vụ công tác Hội.
(7) Hằng năm, Hội LHPN cấp trung ương và cấp tỉnh chủ trì giám sát ít nhất 01 chính sách và phản biện xã hội ít nhất 01 dự thảo văn bản liên quan đến phụ nữ, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và tổ chức Hội; mỗi Hội LHPN cấp huyện, cấp xã giám sát ít nhất 01 chính sách và góp ý ít nhất 01 dự thảo văn bản của cấp ủy, chính quyền.
(8) Đến cuối nhiệm kỳ, Hội LHPN cấp trung ương đề xuất thành công ít nhất 05 chính sách, đề án; Hội LHPN cấp tỉnh đề xuất thành công ít nhất 01 chính sách, đề án liên quan đến phụ nữ.
Câu hỏi 5: Nghị quyết lần này tiếp tục phát động những phong trào thi đua, cuộc vận động và đề ra các khâu đột phá nào trong nhiệm kỳ 2022 - 2027?
Đại hội đã phát động cán bộ, hội viên, phụ nữ cả nước thực hiện:
Phong trào thi đua “Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới” gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”
Hai Khâu đột phá: (1) Đổi mới phương thức hoạt động Hội, trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin; (2) Tập trung xây dựng cơ sở Hội vững mạnh.
Câu hỏi 6: Kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2022 - 2027?
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa 13 gồm 155/163 uỷ viên, đảm bảo tính kế thừa, liên hiệp, đại diện tiêu biểu cho các lực lượng phụ nữ trong cả nước, có đủ tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực, tâm huyết và cam kết vì sự nghiệp bình đẳng giới, sự phát triển của phụ nữ Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ nhất đã bầu 31 chị tham gia Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam khoá XIII; 100% Uỷ viên Ban Chấp hành có mặt đã bầu Thường trực Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội khóa XIII gồm:
1. Bà Hà Thị Nga, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
2. Bà Tôn Ngọc Hạnh - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
3. Bà Nguyễn Thị Minh Hương - Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
4. Bà Trần Lan Phương - Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
5. Bà Đỗ Thị Thu Thảo - Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
Câu hỏi 7: Nội dung chính của 03 nhiệm vụ trọng tâm ?
Nhiệm vụ 1: Hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh
Nội dung trọng tâm của nhiệm vụ:
- Xây dựng người phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế.
- Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ, trẻ em.
- Hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ.
Nhiệm vụ 2: Tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; chú trọng giám sát, phản biện xã hội; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
Nội dung trọng tâm của nhiệm vụ:
- Tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đề xuất chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới.
- Thực hành dân chủ cơ sở, thực hiện hiệu quả chức năng đại diện của tổ chức Hội, hỗ trợ phụ nữ phát huy quyền làm chủ, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
- Vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
Nhiệm vụ 3: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, hội nhập quốc tế
Nội dung trọng tâm nhiệm vụ 3:
- Phát triển mạng lưới, thu hút hội viên, thành viên.
- Nâng cao chất lượng cán bộ, kiện toàn bộ máy tổ chức Hội các cấp.
- Xây dựng văn hóa tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều hành bộ máy cơ quan chuyên trách và hệ thống Hội.
- Nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng của tổ chức Hội trong quan hệ đối ngoại.
Câu hỏi 8: Trung ương Hội sẽ đề xuất các chính sách, chương trình cụ thể nào trong nhiệm kỳ 2022 - 2027 ?
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên và cũng xác định đầu ra cụ thể cho các nỗ lực của Hội, Báo cáo chính trị nêu dự kiến đến cuối nhiệm kỳ, TW Hội sẽ đề xuất thành công ít nhất 05 chính sách, đề án và 02 chương trình, Cụ thể là:
05 chính sách, đề án:
(1) Chính sách chi trả bảo hiểm y tế cho tầm soát một số bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ.
(2) Chương trình/đề án/chính sách đặc thù bảo vệ và hỗ trợ phụ nữ khuyết tật, cao tuổi, lao động nữ di cư.
(3) Chính sách hoặc đề án hỗ trợ cha mẹ có con dưới 36 tháng tuổi gửi trẻ ở vùng có khu công nghiệp, khu chế xuất, đông lao động nữ di cư.
(4) Đề án hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ giai đoạn 2022 – 2030.
(5) Đề án chuyển đổi số trong hệ thống Hội LHPN Việt Nam giai đoạn 2025 - 2030.
02 chương trình:
(1) Chương trình hỗ trợ một triệu phụ nữ nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp cận Chính phủ số.
(2) Chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới cho 3.500 cán bộ nữ.
Câu 9: Hội viên, phụ nữ thực hiện hiệu quả 03 nhiệm vụ trọng tâm trên bằng cách nào ?
- Phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự hào truyền thống dân tộc; giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của gia đình của phụ nữ Việt Nam.
- Mỗi phụ nữ có hành động cụ thể rèn luyện các tiêu chí của phong trào thi đua “Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới”, các tiêu chí cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” hoặc “Xây dựng gia đình 5 có, 3 sạch” góp phần xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh, tạo nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hóa tại khu dân cư; là tấm gương sáng cho các thế hệ trong gia đình, cộng đồng về rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức.
- Chủ động, tích cực, không ngừng học tập bằng nhiều hình thức, học tập ở mọi nơi, mọi lúc; nỗ lực nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng sống, các kỹ năng đáp ứng yêu cầu hội nhập. Luôn có tinh thần học hỏi, cầu thị, sáng tạo, nỗ lực trong lao động, sản xuất, kinh doanh để chọn lọc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới phù hợp vào sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao. Tích cực, chủ động đọc sách, báo, tài liệu để nắm bắt thông tin, kiến thức phục vụ cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh, tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc.
- Nghiêm túc, tự giác, gương mẫu chấp hành và vận động người thân trong gia đình, mọi người trong cộng đồng chấp hành chủ trương đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước với tinh thần “thượng tôn pháp luật”; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương; chấp hành Điều lệ Hội LHPN Việt Nam. Nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
- Tự giác tìm hiểu, tuân thủ pháp luật; tích cực tham gia ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; phát hiện, phản ánh các vấn đề bất cập trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, chính sách tại cơ quan, đơn vị, địa bàn dân cư.
- Tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng: các cuộc họp dân, tiếp xúc cử tri của đại biểu dân cử tại địa bàn, đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống chính trị. Tham dự các buổi tuyên truyền về chính sách, luật pháp để nâng cao kiến thức, nhận thức về pháp luật; chủ động liên hệ với Tổ tư vấn pháp lý, Tổ hòa giải… của địa phương để được trợ giúp về pháp lý khi cần giải quyết các vấn đề khúc mắc của bản thân, gia đình.
- Tích cực nắm bắt, cập nhật thông tin thời sự chính trị của đất nước từ các kênh thông tin chính thống để có bản lĩnh chính trị vững vàng; không nghe theo sự xúi giục, kích động của các thế lực thù địch; góp phần xây dựng hệ thống chính quyền cơ sở vững mạnh. Chủ động phát hiện và phản ánh các vấn đề tiêu cực trong cộng đồng đến chính quyền địa phương, tổ chức Hội Phụ nữ cơ sở; mạnh dạn lên án, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em và người dân trong cộng đồng.
- Chủ động nắm vững các nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của hội viên, phụ nữ khi tham gia tổ chức Hội cũng như khi tham gia các hoạt động do Hội Phụ nữ cơ sở tổ chức.
- Chủ động, tích cực tham gia sinh hoạt tổ chức Hội tại các tổ/chi hội/nhóm/câu lạc bộ phụ nữ trên địa bàn; tham gia sinh hoạt trực tiếp hoặc qua các ứng dụng trên mạng xã hội để có cơ hội nắm bắt thông tin, cập nhật kiến thức bổ ích liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ và trẻ em.
- Chủ động, mạnh dạn tham gia và khuyến khích hội viên, phụ nữ tại địa phương có đủ phẩm chất, năng lực tại địa phương tham gia các vai trò, vị trí lãnh đạo các tổ/nhóm/câu lạc bộ phụ nữ…
- Lựa chọn môn thể thao thích hợp để rèn luyện sức khỏe, tham gia phong trào dân vũ tại địa phương; vận động các thành viên trong gia đình tham gia các môn thể thao rèn luyện sức khỏe, xây dựng chế độ ăn uống hợp lí đảm bảo dinh dưỡng cho mọi thành viên trong gia đình, góp phần nâng cao thể lực, trí tuệ, tầm vóc người Việt Nam; chủ động tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho bản thân và gia đình.
- Giữ gìn và phát huy đạo lý nhân ái, thủy chung, nghĩa tình; nghiêm túc thực hiện quy định chế độ hôn nhân; thực hiện nếp sống văn minh, phát huy tinh thần “tương thân, tương ái” giúp đỡ các gia đình chính sách, phụ nữ có hoàn ảnh khó khăn trong cộng đồng; quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, hỗ trợ các thành viên trong gia đình, biết bảo vệ, phòng tránh cho con em trước những cám dỗ của tệ nạn xã hội, tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội; kịp thời phát hiện các biểu hiện bất thường để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật,
- Phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế tập thể, tiếp cận kinh tế số và chủ động tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương, đất nước, sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị; tích cực tham gia các Tổ hợp tác/Hợp tác xã/mô hình sản xuất tại địa phương góp phần thực hiện chương trình quốc gia “Mỗi xã một sản phẩm”; mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh để tạo các sản phẩm chất lượng, uy tín; phát huy nội lực, hỗ trợ giúp nhau giảm nghèo bền vững.
- Tổ chức sản xuất, chế biến ngay tại các địa bàn nông thôn, tạo điều kiện thu hút lao động nữ, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xây dựng Nông thôn mới; chủ động cập nhật thông tin, kiến thức, kỹ năng và xây dựng các mô hình sinh kế thích ứng với những thay đổi bất thường của khí hậu gây ra.
- Tích cực thực hiện hành động bảo vệ môi trường thông qua việc chủ động phân loại rác tại nguồn, xử lý rác thải hữu cơ, thu gom rác đúng nơi quy định, hạn chế sử dụng sản phẩm từ nhựa; tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu; tích cực trồng cây, gây rừng; bảo vệ động thực vật quí hiếm..; tuyên truyền đến người thân, giáo dục con cái cùng tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường.
- Tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ, bảo vệ đường biên, cột mốc trên đất liền và trên biển; tham gia các phong trào ủng hộ xây dựng biển, đảo quê hương.
- Tích cực xây dựng hình ảnh đẹp về người phụ nữ Việt Nam đối với bạn bè quốc tế khi tham gia các hoạt động dịch vụ du lịch trong và ngoài địa phương; đồng thời quảng bá về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam giàu bản sắc truyền thống.
- Tích cực phát hiện, giới thiệu các gương điển hình phụ nữ tiên tiến đề cử khen thưởng, tham gia các giải thưởng để biểu dương, khích lệ phụ nữ tích cực lao động sản xuất, đổi mới, sáng tạo để cống hiến nhiều hơn nữa trong công cuộc xây dựng đất nước.
[1] 01 đề tài cấp nhà nước, 12 đề tài cấp Bộ, 6 đề tài cấp cơ sở
[2] “5 Có” gồm: Có ngôi nhà an toàn; Có sinh kế bền vững; Có sức khỏe; Có kiến thức; Có nếp sống văn hóa.
|
Kỷ niệm 111 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp (25/8/1911 - 25/8/2022): Người làm rạng danh dân tộc Việt Nam
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, tại làng An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Chính mảnh đất quê hương giàu truyền thống cách mạng và anh hùng đã hun đúc nên nhân cách người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong số ít các nhân vật trở thành huyền thoại ngay cả khi còn tại thế. Chỉ bằng con đường tự học và trải nghiệm thông qua thực tiễn hoạt động và chiến đấu, ông đã trở thành một vị tướng kiệt xuất; một nhà chiến lược mưu trí, sáng tạo; một vị Tổng tư lệnh văn võ song toàn; là “Tư lệnh của các Tư lệnh”; “Chính ủy của các Chính ủy”; một nhà tổ chức hàng đầu của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh vào ngày này cách đây 111 năm, ngày 25/8/1911.
Thiên tài quân sự lỗi lạc
Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 bàn kế hoạch tác chiến dưới sự chỉ đạo của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ảnh: Triệu Đại/TTXVN
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, tại làng An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Chính mảnh đất quê hương giàu truyền thống cách mạng và anh hùng đã hun đúc nên nhân cách người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Tham gia cách mạng từ rất sớm, chàng thanh niên Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho trọng trách thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang trong thời kỳ chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, tiếp đó là Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trên những cương vị đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc, cùng Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối quân sự của Đảng, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, vận dụng sáng tạo phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự độc đáo.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát trận địa Điện Biên Phủ lần cuối trước khi phát lệnh nổ súng tấn công. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; xác định nhiệm vụ trọng tâm của quân đội “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”… được Đại tướng áp dụng một cách nhuần nhuyễn. Từ đó, xây dựng một Quân đội nhân dân Việt Nam vô địch, đánh thắng những kẻ thù lớn mạnh nhất trong thời đại Hồ Chí Minh, giành độc lập tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, ngày 30/12/1972, lực lượng nòng cốt cùng quân và dân Thủ đô đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội. Ảnh: TTXVN
Với tư cách là Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng luôn ghi nhớ, noi gương và thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: làm cách mạng là phải "dĩ công vi thượng", tức là phải đặt lợi ích chung lên trên hết; đồng thời, ông luôn đề cao vai trò của tập thể, phục tùng tổ chức. Điển hình, tại Mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954, tuy là người chỉ huy cao nhất được Bác và Bộ Chính trị trao toàn quyền quyết định các vấn đề, nhưng trước khi quyết định những vấn đề hệ trọng, bao giờ Đại tướng cũng đưa ra thảo luận ở tập thể Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, tham khảo ý kiến của Đoàn cố vấn, nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất cao. Và quyết định thay đổi phương châm tác chiến, từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng không chỉ thể hiện tư duy quân sự sắc sảo, bản lĩnh của người cầm quân, mà còn giúp trận Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” giành được thắng lợi cao nhất với sự hy sinh xương máu thấp nhất.
Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chung vui cùng các chiến sĩ trong lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, tháng 5/1954. Ảnh: TTXVN
Đặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Tổng tư lệnh đã thiết kế nên một thế trận đặc biệt: căng địch ra ở hai đầu chiến tuyến. Phía Bắc giữ địch ở mặt trận Huế-Đà Nẵng, phía Nam giữ địch ở Sài Gòn, làm cho địch bộc lộ sơ hở ở quãng giữa là miền Trung, Tây Nguyên. Khi địch đã rơi vào thế trận do ta sắp đặt, quân ta bất ngờ phá vỡ Tây Nguyên, tạo ra đột biến về chiến lược. Lợi dụng thời cơ, ta giải phóng Huế, Đà Nẵng, đẩy địch vào thế tan rã. Và với sự nhạy bén và quyết đoán của nhà chiến lược quân sự, ông đã chỉ huy các mũi tiến công của đại quân ta bằng mệnh lệnh: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng". Mệnh lệnh của ông vừa là tiếng kèn xung trận, vừa là chiết xuất của một tư duy quân sự thiên tài trước thời khắc hệ trọng lịch sử của dân tộc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các đồng chí lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh: TTXVN
Từ một thầy giáo dạy sử, chưa hề qua đào tạo của một trường lớp quân sự nào, Võ Nguyên Giáp đã trở thành một danh tướng, "một tư lệnh của các tư lệnh, một chính ủy của các chính ủy" - như cách định nghĩa của Thượng tướng Trần Văn Trà. Với nhãn quan thiên tài về quân sự, Đại tướng đã kế thừa tinh hoa quân sự của thế giới, phát huy cao độ nghệ thuật chiến tranh nhân dân của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, phát huy tư tưởng quân sự và sự chỉ đạo sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh để làm nên những chiến thắng vẻ vang, làm rạng danh dân tộc Việt Nam anh hùng.
“Cây đại thụ rợp bóng nhân văn”
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ tàu C41 trong chuyến thăm Đoàn 125 Hải quân, năm 1970. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
Trong lòng những người dân đất Việt, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ là một danh tướng, một “nhà chính trị đi trước nhà quân sự”, mà còn là một “cây đại thụ rợp bóng nhân văn”. Ông là một vị tướng hiểu rõ và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “trọng dân”, “nước lấy dân làm gốc” của các bậc tiền nhân. Yếu tố nhân dân luôn bám rễ sâu trong tư duy quân sự của ông. Ngay trong buổi đầu thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông đã trực tiếp soạn thảo “Mười lời thề” cho đội, trong đó nhiều nội dung đều đề cập đến quan hệ quân-dân.
Trên cương vị Tổng Tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có công lớn cùng tập thể Quân ủy Trung ương đưa quan hệ quân-dân trở thành một trong những nét đẹp truyền thống quý báu của Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như trong việc tạo dựng hình ảnh đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm thương binh đang điều trị tại Quân Y viện 108 (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108). Ảnh: Lâm Hồng/TTXVN.
Ông cũng là một vị tướng thương yêu bộ đội hết mực. Với cán bộ, chiến sĩ dưới quyền, ông như người cha, người anh, người đồng chí thân thiết và gần gũi. Trước nhiều trận đánh, ông đều viết thư động viên, nhắc nhở và thăm hỏi tình hình sức khỏe của bộ đội, dân công, thanh niên xung phong… Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn tại chiến trường, Đại tướng vẫn thường xuyên quan tâm, nhắc nhở cơ quan hậu cần, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị chăm lo sức khỏe, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội… Viên tướng Nava, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, khi nhận xét về “quan hệ cán-binh” của Việt Minh ở Mặt trận Điện Biên Phủ từng phải thốt lên: “Đã bao lần tôi phát ghen với tướng Giáp!”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp với các lão dân quân Hoằng Hóa (Thanh Hóa) từng bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng trường trong chiến thắng Hàm Rồng, tại Lễ duyệt binh nhân Ngày Quốc khánh 2/9/1973. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.
Chiến thắng là cái đích của người cầm quân, song với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không phải lúc nào cũng giành chiến thắng bằng mọi giá, mà chiến thắng đó phải luôn đi kèm với việc giảm đến mức thấp nhất hy sinh xương máu của bộ đội. Trong tư tưởng của vị Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, bảo vệ lực lượng, bảo vệ sinh mạng người lính của mình là mối quan tâm thường trực nhất, vì rằng “một chiến thắng lớn nhất là chiến thắng có được với số người phải hy sinh nhỏ nhất”.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo từng ca ngợi: “…Tôi biết rõ Tổng Tư lệnh đã nhiều đêm thao thức, nước mắt ướt đầm, vì được tin một chiến dịch nào đó máu chiến sĩ đổ quá nhiều, mà chiến thắng thì chưa tương xứng. Đấy là trái tim anh Văn! Đấy là cách đánh và cách tiến công nhân văn”. Còn Thượng tướng Trần Văn Trà, một người bạn chí thiết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khi sinh thời đã viết: “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một vị Tổng Tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh!”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm hỏi lão du kích Bến Tre, ngày 31/5/1975. Đây là chuyến thăm miền Nam đầu tiên sau ngày giải phóng của Đại tướng. Ảnh: Nguyễn Dĩnh/TTXVN
Với kẻ thù, thấu triệt tinh thần “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” của các bậc tiền nhân, Võ Nguyên Giáp không chỉ là một vị tướng biết đánh thắng địch bằng quân sự, mà còn biết thắng địch bằng nhân nghĩa.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, sau trận mở màn chiến dịch, tiến công cụm cứ điểm Him Lam của Đại đoàn 312, thương vong của địch rất lớn, tử thương la liệt khắp trận địa. Theo đề nghị của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị cho ông Mạc Ninh thảo ngay một bức thư chuyển cho Bộ chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ đề nghị cho người ra Him Lam nhận tử thương. Việc làm đó thể hiện tinh thần nhân đạo và trên thực tế nó đã tạo ra một "sang chấn" về tâm lý đối với binh lính Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngay sau ngày chiến thắng, trên cánh đồng Mường Thanh và dọc theo bờ sông Nậm Rốm, Đại tướng cùng Bộ chỉ huy chiến dịch đã cho dựng hàng chục chiếc lều từ vải dù để cứu chữa cho tù binh, hàng binh bị thương… Một nữ tù binh sau khi được phẫu thuật cứu sống kịp thời đã thốt lên: “Cha mẹ tôi đã sinh ra tôi, nhưng chính là nhân dân và quân đội Việt Nam mới thực sự đã cứu tôi sống lại!". Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà nhiều người từng một thời đứng bên kia chiến tuyến, từ những tướng lĩnh của Pháp đến những người lính Âu-Phi... đều dành cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp sự kính trọng và khâm phục đặc biệt.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm các chiến sĩ tự vệ khu phố K và T (Hà Nội) đã chiến đấu dũng cảm mưu trí, bắn rơi máy bay E111 của Mỹ đêm 22/12/1972. Ảnh: Ngọc Quán/TTXVN
Trong suốt sự nghiệp quân sự của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn là người nghiêm khắc, nhưng khiêm tốn, bình dị, bao dung và độ lượng. Khi đề cập đến chiến thắng của các chiến dịch, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, bao giờ và trước hết Đại tướng cũng nói đến vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy; nhắc đến công lao, cống hiến của đồng đội, đồng chí và đồng bào cả nước…
Khi được hỏi: Vị tướng nào trong chiến tranh được Đại tướng đánh giá cao nhất? Ông đã khiêm tốn trả lời: Các vị tướng dù có công lao to lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ... Vị tướng tôi đánh giá cao nhất là Tướng Nhân Dân.
Danh tướng huyền thoại của thế giới
Tháng 7/1980, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Trung tâm huấn luyện phi công vũ trụ Yuri Gagarin tại Liên Xô. Ảnh: Tiến Dũng/TTXVN
Với trí tuệ uyên thâm, tinh thần tự học, tự rèn luyện bằng thực tế chiến đấu, cùng sự nhạy cảm của một thiên tài quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khiến thế giới phải ngả mũ khâm phục, suy tôn là “Danh tướng”, “một trong những thống soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại”, “một trong số những người hiếm hoi có khả năng làm thay đổi dòng chảy lịch sử”... Ông cũng là vị tướng châu Á được phương Tây và thế giới nhắc tới nhiều nhất sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bằng sự kính nể và ngưỡng mộ sâu sắc.
Đại tướng Anh Peter Macdonald, đồng thời là một nhà phân tích về chiến lược, trong cuốn "Giap an assessment" đã viết: “Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại... Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Nguyên soái Ustinov duyệt đội danh dự, tại Moskva, ngày 10/3/77. Ảnh: Hứa Kiểm/TTXVN
Trong tác phẩm "Chiến thắng bằng mọi giá - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiên tài của Việt Nam”, nhà sử học quân sự Mỹ Cecil B.Currey tiếp tục bày tỏ sự kính phục của mình: "Ông không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ XX, và một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của tất cả các thời đại. Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân”.
Ngày 19/11/1995 tại Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tiếp ông Mc. Namara, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm Việt Nam. Ảnh: Kim Hùng/TTXVN
Năm 2006, “Thời báo châu Á” (Times Asia) số ra đặc biệt kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, đã dành một bài viết dài về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong loạt bài viết tôn vinh các “Anh hùng châu Á” - những nhân vật nổi tiếng làm thay đổi cục diện châu lục trong những năm nửa cuối của thế kỷ XX.
Theo Time Asia, nhờ tài cầm quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân đội Việt Nam đã chiến thắng lẫy lừng trong chiến dịch quân sự kéo dài 56 ngày đêm và tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của thực dân Pháp năm 1954, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi đầu tiên của một lực lượng kháng chiến châu Á đánh thắng quân đội thực dân trong một trận chiến quy mô và làm tiêu tan huyền thoại về sự vô địch của phương Tây thời đó.
Tối 08/12/1995, tại Phủ Chủ tịch, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dự buổi chiêu đãi trọng thể Chủ tịch Fidel Castro và các vị cùng đi. Ảnh: Minh Điền/TTXVN
Không chỉ báo chí châu lục, giới nghiên cứu và dư luận phương Tây và Mỹ cũng dành sự quan tâm đặc biệt đối với cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Năm 1984, Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh đã bầu chọn Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong 10 danh nhân quân sự vĩ đại nhất thế giới. Đặc biệt, trong số 10 bức chân dung được tạc tượng bằng vàng và đặt trang trọng ở Viện bảo tàng lớn nhất London, chỉ duy nhất Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tạc tượng khi vẫn đang còn sống.
Trong Bách khoa toàn thư của nhiều nước, tên và hình ảnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất. Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ, xuất bản năm 1993 viết: "Tài thao lược của Tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp Tổng thống Pháp Jacques Chirac thăm hữu nghị Việt Nam từ 12-15/11/1997. Ảnh: Cao Phong/TTXVN
Tân bách khoa toàn thư của nước Anh (xuất bản năm 1985) trong chuyên mục giới thiệu các danh tướng thế giới từ thời cổ đại cho đến ngày nay, cùng với Hannibal, Kutudôp, Napoléon... đã giới thiệu hai danh tướng Việt Nam là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (tập 10, tr.88) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp (tập 10, tr. 493-494).
Nhà báo, nhà sử học Bernard Fall, trong tác phẩm “Võ Nguyên Giáp - Con người và huyền thoại”, đã đánh giá: “Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào sánh kịp Võ Nguyên Giáp”.
Có thể nói, những chiến thắng vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mà Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp góp phần làm nên, đã tác động mạnh mẽ vào dòng chảy lịch sử của dân tộc. Những chiến tích của vị tướng chưa hề được đào tạo qua trường lớp quân sự nào đã khiến thế giới phải ngả mũ khâm phục, để lại dấu son rực rỡ trong lịch sử quân sự thế giới và luôn ngời sáng mãi trong lòng những người dân đất Việt.
Theo TTTT tỉnh (Nguồn TTXVN)
|
|
Tổng truy cập:
|
308725
|
Đang Online:
|
3
|
|
|